Những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Người_Ê_Đê

  • Người Ê Đê là một trong những tộc người có lịch sử lâu đời trong khu vực miền Trung và Tây Nguyên, Thông qua các thư tịch cổ của Trung Hoa, Đại Việt, các bia ký của Champa, Đế Chế Khmer, và cả những ghi chép của các nhà truyền giáo mà ít nhiều nhắc đến các nhân vật trong lịch sử của người ÊĐê xưa. Trong các tác phẩm sử thi dân gian của người Ê Đê thường nhắc đến các nhân vật anh hùng. Sử Thi ÊĐê là một pho tài liệu quý giá chứa đựng thông tin lịch sử về tộc người này.Trong phần lịch sử, Pièrre Bernard Lafont đã tiến hành chia lịch sử Champa ra làm 3 thời kỳ chính: Thời kì Ấn Độ hóa (được tính từ khi lập quốc đến năm 1471), thời kì bản địa (1471-1832) và thời kỳ sau ngày sụp đổ (1832-thế kỉ XX, thông qua ba giai đoạn này thì thời kỳ Ấn Độ hoá Chăm Pa (được tính từ khi lập quốc đến năm 1471)đã tác động mạnh đến một phần văn hoá và tín ngưỡng của người ÊĐê cổ, giai đoạn sau sụp đổ vương triều Vijaya 1471),yếu tố văn hoá Ấn từ các triều đại Champa đã khồng đủ sức ảnh hưởng trước sự phát triển trở lại của yếu tố văn hoá bản địa ở người Ê Đê, trong giai đoạn thế kỷ XV đến thế kỷ XVII này nhiều tác phẩm trường ca, sử thi cổ bắt phát triển nảy nở lại: Dam San, Dam Yi, Xinh Nhã, Dam Kteh Mlan.. và chấm dứt khi các nhà truyền giáo Phương Tây và người Việt xâm nhập vùng cao nguyên.
  • Hơbia Mmih-Êa hay còn gọi là nàng Mi Ê (媚醯) Hbia Mih Êa là vương phi Chiêm Thành vào thế kỷ XI.Bà là vợ của vua Chiêm Thành Jaya Sinhavarman II. MMih Êa vốn xuất thân là cung nữ Rang Đê giỏi dệt chăn gấm.HơBia Mih Ea trong ngôn ngữ Rang Đê cổ có nghĩa là nàng dòng sông. Vào triều vua Lý Thái Tông (1028-1054) nước Đại Cồ Việt, vua Jaya Sinhavarman II của Champa không theo lệ cống, thất lễ Phiên thần, vua tự đem quân Nam chinh phạt Chiêm Thành. Vào năm 1044, vua Lý Thái Tông của Đại Cồ Việt tiến đánh Chiêm Thành, trong khi đó triều chính Chiêm Thành có sự bội phản, tướng Chiêm Thành là Quách Gia Dĩ đã chém chết chúa vua Jaya Sinhavarman II rồi đầu hàng. Quân Đại Cồ Việt chiếm được thành Sinhapura, bắt hàng trăm cung nữ, ca kỹ và nhạc công mang về, trong đó có H'Bia Mih Êa:Theo Việt Sử Toàn Thư, tr 141: Chiêm Thành bỏ cống 16 năm, vua Lý Thái Tông phá quốc đô Phật Thệ, giết 3 vạn quân Chiêm, bắt sống 5.000 người, bắt được 30 con voi và giết chúa Sạ Đẩu tức là vua Jaya Sinhavarman II [13]. Khi thuyền đến sông Lý Nhân, giữa đêm, vua Đại Cồ Việt nghe Mỵ Ê có sắc đẹp, bên sai quan Trung Sứ vời đến chầu thuyền ngự. Mih Êa không dấu được phẩn uất, từ chối rằng: Vợ phương nam man rợ quê mùa, y phục xấu xí, ngôn ngữ thô lỗ, không giống các phi tần đất Việt. Nay nước tan, chồng mất, chỉ mong một chết là thoả lòng; nếu cưỡng bức hợp hoan, ngại nổi làm dơ mình vua vậy. Đoạn, nàng lén lấy tấm chăn thổ cẩm vừa tự dệt quấn lấy kín thân mình rồi nhảy xuống sông Châu Giang mà chết. Nhà vua kinh hoàng tự hối, muốn cứu nhưng không sao kịp nữa.
  • H'bia Suryah Bunga Dewee hay Suryah Đê-wi(Thế kỷ XII) Là chị gái ruột của Vancaraya thuộc dòng dõi hoàng gia Vijaya. Suriyah Bunga Dewi sau này thành vợ của Vua Nam Champa Jaya Harivarman I xứ Paduranga và trở thành thứ hậu. Khi người Khmer đánh chiếm và đô hộ bắc Chiêm Thành, Suriyah Bunga Dewi đề nghị chồng là vua Jaya Harivarman I mang quân sang giúp em trai mình là Vancaray đánh đuổi người Khmer và giải phóng kinh đô Vijaya của xứ Bắc Chiêm Thành. Sau cuộc kéo quân ra bắc, Jaya Harivarman I đã đánh đuổi được người Khmer và ngay lập tức kiểm soát hết toàn bộ lãnh thổ bắc Chiêm Thành với ý định nhằm thống nhất toàn cõi dân Chiêm Thành .Vụ việc dẫn đến người sự chống đối quyết liệt của người Rang Đê dưới sự lãnh đạo của Vancaraya.
  • Vancaraya (1125- 1169) Vancaraya là tên gọi bằng tiếng Pali Sanskrit Ấn Độ Vancaraya (वैनसीएराया), tiếng ÊĐê thường gọi là Dam Khing Jŭ có nghĩa là thủ lĩnh da nâu. Theo sử liệu Trung Quốc thì Vancaraya được nhắc đến với tên gọi (鷹 明 葉 Bính âm: YingMingYe, âm Hán Việt: Ưng Minh Diệp), là một thủ lĩnh người Rang Đê, cũng là một hoàng tử thuộc hoàng gia Vijaya miền bắc Champa, giai đoạn lịch sử này, người Ê Đê và Jarai chưa phân li thành hai tộc người riêng như ngày nay. Sự kiện lịch sử theo bia ký Champa ghi lại rằng: Đó là vào giữa thế kỷ thứ XII, vương quốc Champa bị phân chia làm hai miền. Miền nam, tức là tiểu vương quốc Panduranga (thuộc vùng Ninh Thuận ngày nay), đặt dưới quyền lãnh đạo của vua Jaya Harivarman I. Ngược lại, tiểu vương quốc Vijaya (Ngày nay thuộc địa bàn huyện Tuy Phước tỉnh Bình Định) ở miền bắc đặt dưới quyền đô hộ Đế chế Khmer. Vì không thể chấp nhận sự thống trị của người dị chủng Campuchia, vua Jaya Harivarma I ở miền nam tiến quân ra bắc giải phóng kinh đô Vijaya vào năm 1149, giết được hoàng tử Harideva, lãnh đạo đoàn quân viễn chinh Campuchia. Sau ngày thắng trận, thay vì Jaya Harivarman I phải rút quân trở về Panduranga, ông ta lại lợi dụng tình thế, tự xưng vương ở Vijaya, mặc dù ông ta biết rằng quyền nối ngôi ở Vijaya phải thuộc về hoàng tử Vancaraya, chính là em ruột của vợ ông (Vua Jaya Harivarnann I có một người vợ gốc Rang Đê). Nhằm phản đối lại sự đoạt ngôi này, các bộ tộc Rang Đê mà bia ký gọi là Kiratas phất cờ vùng dậy đưa hoàng tử Vancaraya lên làm vua ở Vijaya. Vua Jaya Harivarman I không còn giải pháp khác để giải quyết sự khủng hoảng chính trị này, quyết định vào năm 1151 tấn công đoàn quân người Rang Đê và nhóm quân Kiratas khác do hoàng tử Vancaraya lãnh đạo. Thất trận, hoàng tử Vancaraya chạy sang Đại Việt cầu cứu viện trợ. Vua Lý Anh Tông sai tướng Nguyễn Mông cùng 5.000 binh sĩ từ Thanh Hóa vào tiếp cứu nhưng bị đánh bại, Nguyễn MôngVancaraya đều bị tử trận. Toàn bộ các thung lũng ven núi như Êa Drang, Êa Pa, Êa Ryu nơi người Rang Đê cư trú đều đặt dưới sự kiểm soát trở lại của Vua Jaya Harivarman I gốc người miền nam Champa. Đây có thể là mối liên hệ sớm nhất giữa bộ lạc Tây Nguyên với người Việt.
  • Sri Agara Là một thủ lĩnh gốc người Rang-Đê. Sau những thất bại của Vancaraya nhóm người Rang-Đê tiếp tục kháng cự không chịu chấp nhận Ấn-Độ hóa bộ lạc Rang-Đê của người Chăm.Năm 1191 tại Vijaya, Surya Jayavarman (hoàng tử In) bị Rasupati, một hoàng thân Champa, đánh bại phải chạy về lại Chân Lạp. Rasupati tự xưng là vua xứ Vijaya, hiệu Jaya Indravarman V. Không nhìn nhận vương quyền mới này, Jayavarman VII cho Jaya Indravarman IV (cựu vương Champa và cũng là cha của hoàng tử In) về Bắc Champa chiếm lại ngôi báu. Jaya Indravarman IV được Suryavarman (hoàng thân Sri Vidyananda) tiếp sức mới chiếm được Vijaya, Rasupati (Jaya Indravarman V) bị xử trảm. Thay vì giao thành lại cho vua Champa cũ, Suryavarman chiếm luôn Vijaya; Jaya Indravarman IV liền kêu gọi dân chúng tại Amavarati và các làng Ulik, Vyar, Jriy, Traik chống lại. Năm 1192, Jaya Indravarman IV bị tử trận tại Traik. Suryavarman thống nhất lại đất nước, lên ngôi vua và tìm cách tách khỏi ảnh hưởng của đế quốc Angkor. Hay tin hoàng thân Suryavarman làm phản, Jayavarman VII cử đại quân, trong số này có cả người Rang-Đê (do tướng Jai Ramya cầm đầu), sang đánh Champa. Cuộc chiến kéo dài từ 1193 đến 1194, đại quân Khmer bị đánh bại. Thay vì theo quân Khmer về nước, một người Rang-Đê tên Sri Agara chiếm một vùng đất lớn từ Amavarati đến Pidhyan (Phú Giang, bắc Phú Yên) rồi tự xưng vương năm 1193, hiệu Mtao Ayna PôKa. Sau đó, tướng Dhanapati được lệnh vua Khmer đánh dẹp các cuộc nổi loạn tại Champa, đặc biệt là người Ê Đê trên cao nguyên. Mtao Ayna PôKa bị bắt sống đem về Campuchia trị tội và bị xử tử tại Angkor. Dhanapati được phong toàn quyền cai trị xứ Champa. Champa trở thành một tỉnh của đế quốc Khmer lần thứ hai.
  • Hbia Drah Hjan (1630-1654) là con gái của một thủ lĩnh ÊĐê Adham thuộc vùng Čư̆ Mgar, có nơi gọi là H' Drah Hjan Kpă, Ea Hleo phía bắc Dak lak ngày nay, H' Drah Hjan tiếng Êđê nghĩa là Công chúa Hạt Mưa sau này trở thành hoàng hậu thứ của Vương Triều Champa suy tàn trước sức ép của nam tiến của người Việt. Truyện kể lại rằng:

Một phụ nữ quyền quý thuộc dòng dõi Rhade đã hạ sinh một cô con gái trong đêm tháng ba (âm lịch) lúc trời đất vào khoảng khắc chuyển mùa từ mùa khô sang mùa mưa đúng lúc năm mới ở các xứ Lào, Khmer, Xiêm La (Thái Lan), cũng là năm mới trong tháng lịch nông nghiệp của người E đê, Drah jan sinh ra khi trời đất nổi những cơn sấm ầm ầm trong đêm và giọt mưa đầu mùa tí tách trút xuống như hạt máu vì sau tháng mùa khô ầy bụi đất, vì thế mưa đầu mùa người Eđê gọi là " Drah Hjan " nghĩa là " mưa máu " là giọt mưa nước mắt bằng máu của tổ tiên (atau) khóc cho con chaú dưới trần gian. Mẹ của Drah jan qua đời sau khi bà hạ sinh Drah jan trong đêm lạ lùng đó. Cho nên tới bây giờ người Eđê vẫn còn phong tục " Kăm Mah" khi có giọt mưa đầu mùa kèm theo những tiếng sấm thất kinh đất trời Tây Nguyên, Kăm mah nghĩa là " kiêng cữ đeo trang sức vàng bạc " tức là phụ nữ Eđê không đuoc ra ngoài trong mưa, không đeo vàng bạc trang sức vì đó là ngày một phụ nữ Eđe quyền quý qua đời cũng là ngày hạ sinh một cô công chúa Drah jan huyền bí sau này sẽ là bà hoàng của một Vương Quốc (Hơ Bia). Riêng người Chăm thì cho rằng theo các nhà chiêm tinh Bà La Môn của Vua Po rê mê thì hạt mầm nảy lộc làm vực dậy vương quốc Chăm pa lại chính là từ người Rhade, các nhà thuật chiêm tinh của Poerme tin rằng Drah jan chính là vị thần có thể hồi sinh nòi giống Chiêm Thành. Từ đó đích thân Pô Rê mê sang vùng đất Rhade để rước Drah jan về, Pô rê mê vốn là người tin vàu thuật bói khóa, chiêm tinh, Dù ông nhiều bà vợ nhưng duy nhất Drah jan là người hạ sinh nhiều con cái cho hoàng triều nhất. Chúa nhà Nguyễn, Nguyễn Phúc Tần sai cai cơ Hùng Lộc mang 3000 quân đánh chiếm vùng đất còn lại của Champa từ Nha Trang đến Sông Phan Rang. Po Romê bị bắt trong trận chiến này, ngài bị nhốt vào Rọ, bỏ đói bỏ khát trên đường đưa về Huế, có lẽ trên đường đi ngài đã tự tử (Lược sử Dân tộc Chàm Dohamide gọi là Ba Bì đã tự tử). Theo tục lệ đạo Bà La Môn, người ta hỏa thiêu xác vua, khi đó chỉ có bà hoàng hậu Ê Đê là H'Bia Drah Jan đã lặng lẽ âm thầm tiến đến gần nhảy vào lửa chết theo chồng,vì hoàng hậu cả là bà Drah Jih theo đạo Hồi (Chăm BàNi) theo giáo luật Hồi giáo không giám tuẫn tiết theo vua. Để tưởng nhớ đến một vị hoàng hậu cuối cùng của Vương triều Champa này nên được nhân dân thờ Bà trong một ngôi tháp phụ, rồi khi ngôi tháp sụp đổ, tượng của bà được đưa vào tháp chính phía bên phải tượng Vua là người chồng của mình. Sự hi sinh chung thủy của Drah Jan đến nỗi người Chăm coi bà như Nữ Thần và gọi là Pô Bia Drah Jan. Đây có thể là mối liên hệ cuối cùng về hôn nhân giữa các triều đại Champa với người Rangđêy. Người Chiêm Thành đã có những câu ca rằng:Ba hoàng hậu Drah Jan, Drah Jih, Drah yang,Làm náo động sân đình chỉ vì thần Po Rame đẹp trai.Ba hoàng hậu Drah jan, drah Jih, drah Yang, Sắc đẹp toả sáng như thần mặt trời mọc lên.(Drah Jan: hoàng hậu người Ê Đê, Drah Jih: hoàng hậu cả người Chăm Hồi giáo bàni, Drahyang: có ý kiến cho rằng những người vợ Pô Reme theo Hồi giáo gốc Kelantan (Bắc Malaysia)''

Như vậy vua Pô Reme 4 bà vợ:

Một người Cham Bà-ni là công chúa nhà vua Pô Muh Taha;

Một người Malaysia, để bang giao với thế giới Mã Lai.

Một người Ê đê, Vua Pô rê mê và các thuật sĩ chiêm tinh Bà La Môn khi đó tin rằng để phục hồi sức mạnh Champa xưa cũ nhằm gây dựng lại cơ đồ vực dậy hồi sinh giống dân Chiêm Thành về sau;

Và bà vợ Việt là Công nữ Ngọc Khoa Bia Ut, như là kế hoãn binh với người Việt để tái thiết đất nước.

Thông tin khác: Tương truyền vào năm 1471, khi thân chinh cầm quân tấn công tiêu diệt Champa,vua Lê Thánh Tông dừng tại chân núi, cho quân lính trèo lên khắc tên, ghi rõ cương vực Đại Việt (Việt Nam ngày nay) tại nơi này. Vì thế, núi được gọi là núi Đá Bia.Trên núi có 1 tảng đá cao 76m, tương truyền năm 1471, vua Lê Thánh Tông đã đến đây và cho khắc lên mặt khối đá bài văn (nên sau gọi là hòn Đá Bia) dòng chữ khẳng định chủ quyền Đại Việt.Về nội dung văn bia, các tài liệu có sự giải chép khác nhau, tựu trung có ba nội dung như sau: "Chiêm Thành quá thử, binh bại quốc vong, An Nam quá thử, tướng tru binh chiết" nghĩa là "Chiêm Thành vượt qua nơi này, binh thua nước mất, An Nam vượt qua nơi này, tướng chết quân tan"; hoặc "Dĩ Nam Chiêm Thành, dĩ Bắc dân triều mệnh Việt Nam" nghĩa là "Từ đây về Nam là Chiêm Thành, từ đây về Bắc dân chịu mệnh Việt Nam"; cũng có tài liệu nói rằng văn bia chỉ là hai chữ "Hồng Đức", là niên hiệu của vua Lê Thánh Tông. Theo tryền thuyết người Eđê Phú Yên truyền thuyết của người Ê Đê, núi Đá Bia là Kut Hbia Bhi (mộ của bà HơBhí). Hbia Bhí là tên gọi khác của Hơbia Drah Jan là người dân tộc Ê Đê, vợ của vua Pôrômê là vị vua tài giỏi của người Champa xưa kia,sau khi HơBia Bhí (một trong 3 người vợ của vua Pôrômê) mất, người ta đã đắp cho bà ngôi mộ thật to lớn, đó chính là núi Đá Bia ngày nay.

Núi Đá Bia, phía nam Phú Yên - Theo Truyền thuyết nói rằng sau khi HơBia Bhí (tên gọi khác của hoàng hậu Drah Jan) mất, người ta đã đắp cho bà ngôi mộ thật to lớn, đó chính là núi Đá Bia ngày nay.Tháp Pô Reme tại Ninh Phước tỉnh Ninh Thuận thờ Vua Pô Remê và hoàng Hậu Drah Jan người Êđê
  • Y Jut Hwing (1888-1934) sinh ra tại Buôn Kram, xã Êa Tiêu trước đây thuộc huyện Krông Ana, nay thuộc huyện Čư̆ Kuiñ, tỉnh Dak Lak. Sinh ra trong cảnh nước mất nhà tan, Y-Jut cùng các trẻ em nam khác bị thực dân Pháp bắt cóc và giao nộp cho Trường Prancios-Rhade để đào tạo trí thức tay sai cho thực dân Pháp. lợi dụng cơ hội này Y Jut quyết tâm học hành, đem ánh sáng văn hóa trở lại phục vụ quê hương, buôn làng và đó cũng là cơ hội tốt nhất để giải phóng đồng bào ra khỏi ách áp bức bóc lột. Y Jút tốt nghiệp sơ học tại Trường Franco – Rhade Buôn Ama Thuôt, tốt nghiệp tiểu học ở Huế và năm 1912 học trung học tại Trường Lycee Khải Định Huế. Năm 1916 Y Jut tốt nghiệp trung học, được bổ nhiệm làm giáo viên tại Trường Franco – Rhade Buôn Ma Thuột. Trước cảnh sống tối tăm và khổ nhục của đồng bào do chính sách ngu dân của thực dân Pháp, ngay từ những năm đầu bước vào nghề dạy học, Y Jút đã nuôi hoài bão giải thoát người Ê Đê ra khỏi nạn mù chữ. Kết hợp với bạn bè như Y Ut, Y Blŭl tìm hiểu mẫu tự La tinh và vần Êđê đặt ra bộ chữ viết Êđê ngày nay. Sau đó bộ chữ này được đốc học Angtoamaki và Sabatier tu chỉnh lại vào năm 1920. Latinh hóa tiếng Êđê và thầy đã thành công. Ngoài ra, Y Jút còn là người phụ trách biên soạn bộ giáo trình Rhade – Pháp(Rhade-Francios) loại bỏ giáo trình Pháp-Rhade (Francios-Rhade) dùng để giảng dạy trong nhà trường nghĩa là học sinh bản địa Ê Đê học chữ Êđê trước sau đó mới học chức Pháp. Chữ Êđê là một trong những bộ chữ của các tộc người bản địa Tây Nguyên được xây dựng sớm nhất ở khu vực từ cơ sở chữ Latinh nhằm mục đích phục vụ giáo dục, với ý thức tự tôn dân tộc, nhằm giúp cho người Ê Đê có chữ viết. Sau này mới được các linh mục người Pháp, các mục sư Tin lành người Mỹ góp ý sửa chữa để chép kinh thánh bằng tiếng Ê Đê. Điều này không giống với quá trình xây dựng và hình thành bộ chữ của một số tộc người Tây Nguyên khác như: Jarai, Bana, Ka Ho… đều do các đức cha giáo phận mời trí thức các dân tộc cùng tham gia biên soạn, hướng chính vào mục đích phổ biến kinh thánh Cơ đốc và Tin lành. Trải qua nhiều năm tháng, bộ chữ Êđê ban đầu do hai thầy Y Jut và Y Ut biên soạn vẫn được coi là khoa học nhất và rất ít bị thay đổi. Ngày nay hầu hết người ÊĐê sử dụng thành thạo chữ viết này. Y-Jut bị đầu độc và qua đời năm 1934 tại Buôn Ama Thuôt còn Y-Ut Niê Brit (Ama Puk) bị kẻ xấu ám sát bằng súng năm 1962 tại Buôn Đôn trong khi đang dạy học cho các trẻ em ÊĐê.

Liên quan

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Người_Ê_Đê http://www.degaronline.com http://www.ethnologue.com/show_language.asp?code=r... http://www.ethnologue.com/show_work.asp?id=12495 http://www.ethnologue.com/show_work.asp?id=15150 http://www.joshuaproject.net/peopctry.php?rop3=110... http://chuvietnhanh.sourceforge.net/CachCaiGoNgonN... http://www.aboutvietnam.org/People/Ede_People.html http://www.ibiblio.org/sripedia/ebooks/mw/0400/mw_... http://www.peoplesoftheworld.org/text?people=Ede http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu...